linhphandr@gmail.com
+84 978 522 626

Hospitalisation à domicile: tạm dịch là nhập viện tại nhà (NVTN)

Sau bài viết về hệ thống y tế tổng quan ở Pháp, lần này mình xin được chia sẽ một mô hình cơ sở y tế đang trên đà phát triển trong mấy năm gần đây.
1- Định nghĩa:
Theo nghị định ngày 02/10/1992: cơ sở NVTN được cho phép thực hiện tại nhà, trong một thời gian nhất định và có thể ra hạn thêm tuỳ vào tiến triển bệnh, những chăm sóc, điều trị bệnh liên tục và cần sự phối hợp của nhiều nhân viên y tế thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều trị bệnh do đội ngũ NVTN khác với các chăm sóc sức khoẻ thông thường ở nhà do bác sĩ (bs) gia đình, y tá là ở tính phức tạp và biên độ cao trong trong sự khám, theo dõi bệnh và can thiệp ở bệnh nhân (bn).
 
Thông tư ngày 30/05/2000 định rõ: NVTN dành cho đối tượng bệnh nhân, ở bất kỳ độ tuổi nào, bị các bệnh nặng cấp tính hoặc mãn tính, đang trong gia đoạn tiến triển nặng hoặc không ổn định. Những bệnh nhân này nếu không có tổ chức nhập viện tại nhà thì sẽ phải nằm viện trong các bệnh viện (bv) truyền thống. Do đó tổ chức NVTN góp phần giảm ngắn thời gian nằm viện, thậm chí trong một số trường hợp còn giúp tránh phải nhập viện, giúp giảm tải bv.
 
2- hình thức hoạt động:
2.1-tổ chức hành chính, pháp lý:
Bv hoặc các tổ chức muốn thực hiện chăm sóc bn dưới hình thức NVTN phải được sự cho phép của các ban nghành có thẩm quyền ( ở bên Pháp là agence régionale de santé, tương tự như sở y tế tỉnh ở Việtnam)được tổ chức y tế chứng nhận đạt chất lượng khám chữa bệnh. 
 
Cơ sở NVTN có thể là cơ sở nhà nước trực thuộc bv hoặc là cơ sở tư nhân. Các cơ sở này được công nhận là 1 cơ sở y tế với các chức năng, nhiệm vụ về đảm bảo chất lượng, an toàn trong công tác khám chữa bệnh và tôn trọng quyền bệnh nhân.
 
2.2- Nhiệm vụ chính của NVTN nằm trong chăm sóc giảm nhẹ (25%), trong các trường hợp thay băng gạc phức tạp(20%). Ngoài ra NVTN còn có thể đảm bảo các nhiệm vụ điều dưỡng ( nursing) nặng, bổ sung dinh dưỡng bằng đường tiêm truyền, hỗ trợ hô hấp, bệnh nhân cần thuốc tiêm truyền dài ngày như kháng sinh liều cao trong viêm màng tim, ung thư giai đoạn cuối...
 
2.3- Thành phần chính:
- Bs của cơ sở NVTN, nhiệm vụ chính là điều phối, kết nối giữa bs gia đình, y tá và các bs chuyên khoa của bn.
- Bs của bv (thường lá các bs chuyên khoa) phụ trách bn trước khi bn trở về nhà dưới sự chăm sóc của cơ sở NVTN. Nhiệm vụ chính là trao đổi thông tin về bệnh tình của bn, đưa ra phác đồ điều trị, theo dõi bn tại nhà. Bs này đồng ý nhận lại bn vào bv nếu cần thiết (bệnh nặng lên, bệnh mới thêm vào...)
- Bs gia đình của bn, là bs chịu trách nhiệm chính trong khám chữa bệnh cho bn ở ngoài cộng đồng. Trong trường hợp bệnh nhân nhập viện tại nhà, phải được sự đồng ý của bs gia đình, và bs này vẫn là bs chính theo dõi diễn biến sức khoẻ của bn tại nhà.
- Ngoài đội ngũ bs, còn có các nhân viên y tá, điều dưỡng, vật lý trị liệu, nhà tâm lý học, các nhân viên hành chính, tạp vụ...
 
2.4- Quá trình điều trị cho bn nhập viện tại nhà:
Có 2 tình huống:
- Một là bn đang nằm viện và bs chuyên khoa cho rằng bn có thể về nhà điều trị. Bs sẽ giới thiệu hình thức NVTN cho bn, nếu bn đồng ý, bs sẽ liên lạc với cơ sở NVTN và với bs gia đình để cùng đưa ra pháp đồ điều trị tại nhà. Trường hợp này chiếm 95% đầu vào của các bn nằm viện tại nhà.
- Hai là bn đang được chăm sóc trong cộng đồng bởi bs gia đình, y tá. Bs gia đình đánh giá các chăm sóc quá phức tạp, đòi hỏi tổ chức chặt chẽ, theo dõi thường xuyên thì sau khi được sự đồng ý của bn sẽ liên hệ với cơ sở NVTN để bn được chăm sóc dưới hình thức NVTN. 
 
Trong cả 2 trường hợp, bs của cơ sở NVTN sau khi được liên lạc, sẽ trao đổi trực tiếp với bs và bn, đi thăm nhà bn để đánh giá khả năng thực hiện NVTN và các hình thức chăm sóc, khám chữa bệnh cũng như đội ngũ y tế cần thiết. Cơ sở NVTN còn theo dõi cả các bn ở nhà dưỡng lão, nhà tình thương....
 
Một khi tất cả các bên (bs NVTN, bs gia đình, bs chuyên khoa nếu có và bn) đều đồng ý với hình thức NVTN thì bs NVTN sẽ lên kế hoạch chăm sóc (ai làm gì, giờ nào, thời gian bao lâu...), điều phối các hoạt động khám chữa bệnh tại nhà của bn. Các thiết bị y tế, thuốc, băng gạc...cần thiết sẽ được đưa trực tiếp đến nhà bn. 
 
Các cơ sở NVTN có thể thực hiện tất các các hoạt động chăm sóc bn hoặc phối hợp làm cùng với trạm y tá của bn. 
 
Cơ sở NVTN có bs, y tá trực 24 giờ/24, 7 ngày/7 cho phép bn có thể liên lạc bất cứ lúc nào trong trường hợp khẩn cấp. Điều này các phòng khám gia đình, các trạm y tá khó có thể đảm bảo được. Đội ngũ y tế của cơ sở NVTN do nắm vững tình trạng bn sẽ can thiệp dễ dàng hơn là nếu bn phải vào khoa cấp cứu của bv gần nhất. 
 
Sau thời gian điều trị tại nhà bởi cơ sở NVTN,thì bs NVTN và bs gia đình sẽ cùng quyết định là bn có thể "được xuất viện", tức là sẽ được theo dõi trong cộng đồng bởi bs gia đình và các y tá nếu cần thiết. Do các tình huống bệnh của các bn NVTN thường là bệnh nặng, chăm sóc phức tạp, chăm sóc giảm nhẹ nên 9% bn tử vong trong quá trình NVTN, 20% bn sẽ phải nhập viện sau 1 thời gian điều trị tại nhà. 
 
2.5- Chi phí NVTN:
Các bn nhập viện tại nhà được chi trả bảo hiểm như các bn nằm viện truyền thống. Giá trung bình ước tính là 198 euros/ ngày ( số liệu năm 2011).
 
3- Lịch sử phát triển:
- Khái niệm về cơ sở NVTN được hình thành ở Mỹ nào năm 1950, được gọi là " Home care". 
- Vào năm 1957, lần đầu tiên ở Pháp, bv Tenon ở Paris đưa mô hình này vào hoạt động.
- Từ năm 1970, mô hình NVTN được công nhận về mặt pháp lý. Năm 1991, NVTN được công nhận là mô hình luân phiên,hỗ trợ cho các bv. Năm 2000, mô hình được công nhận là một hình thức nhập viện độc lập với các bv. 
 
Vài số liệu về NVTN vào năm 2014:
- 309 cơ sở được cấp phép hoạt động
- 106 000 bn được điều trị bởi các cơ sở NVT
- 162 000 lượt nhập viện
- trung bình 18,5 bệnh nhân NVTN/ ngày/ 100 000 người
- 4,4 triệu ngày nằm viện
- 944 triệu euros phí chi trả của bảo hiểm xã hội
 
Mục tiêu đến năm 2018 là 30-35 bn/ ngày/ 100 000 dân cư.
 
4- Kết luận:
Mô hình NVTN không còn là mới ở Pháp, mặc dù sự phát triển không bình đẳng của mô hình này ở các vùng miền khác nhau. Các cơ quan lãnh đạo y tế tối cao của Pháp đã và đang đưa ra nhiều chính sách để phát triển, mở rộng mô hình, tìm các đối tượng bn mới ( tiêm truyền thuốc ung thư, phụ nữ sau ca sinh đẻ phúc tạp, trẻ em bị ung thư, bị dị tật bẩm sinh, chăm sóc sau phẫu thuật về đường tiêu hoá, phụ khoa, xương khớp...). Mục đích chính là giảm tải bv, giảm số ngày nằm tại bv. Về mặt tài chính, mô hình này được xem là giảm chi phí cho bảo hiểm xã hội: một ngày nằm viện tại nhà được định giá trung bình la 196 euro so với 703 euro giá 1 ngày nằm viện tại bv. Mô hình NVTN góp phần nâng cao sự hợp tác giữa y tế bv và y tế cộng đồng, đáp ứng yêu cầu của các bn muốn được điều trị tại nhà. Chính sách y tế Pháp gần đây đã đưa vào hoạt động kỹ thuật " telemedicine" = y học từ xa, góp phần hỗ trợ tốt hơn cho sự phát triển của mô hình NVTN.
 
Ha Do
THÔNG TIN KHÁC

Bản quyền thuộc về CLB QLCL-ATNB

© 2014 Thiết kế bởi QPS Team