linhphandr@gmail.com
+84 978 522 626

Tính thu nhập cho NVYT thế nào cho phù hợp và tạo động lực?

Ngành Y tế có tính đặc thù về giá trị đầu tư cho con người, kinh tế tri thức và sức khỏe tính mạng…Chi tiết hơn đến việc dành thời gian, công sức, tài trí cho việc học hỏi, thực hành để trở thành một BS, NVYT giỏi và tận tâm. Đó còn là tính phức tạp trong việc “định giá” cung cấp sản phẩm dịch vụ y tế: đa dạng và đóng góp khác biệt của các cá nhân trong gói dịch vụ BV…
Xin nêu ra vài mô hình “trả lương” (cách gọi chung cho thu nhập- TN) cho NVYT từ các môi trường BV khác nhau, nhìn chung có 2 nhóm chính là theo ca (Fee For Service- FFS) và linh động theo mối quan hệ (ARP- Alternative Relationship Plans)
 
1. Theo từng ca dịch vụ- FFS: cách này khuyến khích NVYT làm nhiều dịch vụ để có TN cao, nhưng dẫn đến không chú trọng chất lượng dịch vụ (DVYT), chạy theo số lượng và có khi BS đẻ ra nhiều loại DVYT quá đáng, vì thế tại Mỹ gọi là PID “Physician induced demand” (lúc đi học các Thầy nói cách này làm từ những năm 80s và cho thấy nhiều bất cập…tuy nhiên ở VN chúng ta vẫn còn xài nhiều lắm!)
 
2. Linh Động (ARP):
• Theo “khoán” từng ca (Capitation): trả phí cố định nên làm giảm số dịch vụ không cần thiết, nhưng lại làm giảm chất lượng DVYT, vì BS sẽ chọn ca nào BN ít có bệnh lý phức tạp đi kèm.
• Theo giờ làm việc (Sessional): lương thường theo DVYT cố gắng làm thêm, trả theo giờ dành cho BN/loại hình DVYT. Hạn chế là hiệu suất dịch vụ (efficiency), vì NVYT có thể “câu giờ” (cái này ở VN hơi phổ biến!)
• Theo hợp đồng thỏa thuận trước (Contractual- số tiền/ca & loại DVYT hay số ca). Khác với FFS, số tiền và số ca do đã thỏa thuận nên làm giảm đi các DVYT không cần thiết, nhưng cách này lại bị chỉ trích là NVYT sẽ cố “gôm lại” và “hành chánh” (bureaucracy)
• Lương “cứng” (salary, block funding, blended funding): bản chất là lương cố định theo thỏa thuận, nhưng “block funding” được dùng cho mô hình Viện-Trường, BS ở BV sẽ được trả lương cứng cho cả lâm sàng và giảng dạy-nghiên cứu- hành chính…”Blended funding” là lương cứng có kết hợp FFS + ARP.
• Trả TN theo kết quả đóng góp (Pay For Performance- P4P): đóng góp lâm sàng + chất lượng DVYT qua hệ thống điểm/ KPIs. P4P giúp duy trì chất lượng DVYT. Đây được xem là cách có ưu điểm cao tạo giá trị cho kết quả điều trị, tiếp cận y tế, hài lòng BN, tương ứng với thực hành LS cho NVYT và cơ sở vật chất BV.
 
 
Có khá nhiều mô hình mới về tính thu nhập cho NVYT như EOC (Episode of Care), mô hình khá phức tạp của Massachusetts Medical Society như PROMETHEUS payment… Nhìn chung cách tính phí trả đều có từng ưu khuyết, xin được nghe ý kiến và sẽ bàn thêm sau, tuy nhiên mục tiêu của gia tăng thu nhập của BS/NVYT nên dựa vào 5 yếu tố trong vận hành BV (số lượng ca, tiếp cận y tế, chất lượng DVYT, hài lòng của BN và hài lòng của NVYT).

ThS.BS Nguyễn Thành Danh
Giảng viên Marketing Dược Phẩm và Y Tế tại BMG International Business Training
Tổng Giám đốc Besin Healthcare Việt Nam

Tham khảo thêm:
THÔNG TIN KHÁC

Bản quyền thuộc về CLB QLCL-ATNB

© 2014 Thiết kế bởi QPS Team